QUẢ NHO - VIÊN NGỌC TRONG SUỐT
Quả nho vỏ mỏng, nhiều nước, vị vhua ngọt, nhiều chất bổ. Nho có nhiều loại như đỏ, trắng, hoa hồng, sữa… Ngoài ra, rễ nho, lá nho cũng đều là vị thuốc.
Sách Thần nông bản thảo kinh có viết: Nho ích khí, tăng lực, cường trí, làm cho người béo khỏe, chịu đựng được đói khát, phong hàn. Ăn lâu ngày, người sẽ thấy nhẹ nhàng, thoải mái.
Các sách như Bản thảo cương mục, Danh y biệt lục, Dược tính luận đều giới thiệu tác dụng tẩm bổ, kéo dài tuổi thọ của Nho.
Y học hiện đại đã chứng minh trong quả nho có đường, các protein, canxi, sắt, carotene, các vitamin… Nước nho ép, rượu nho đều có tác dụng diệt virus, chữa thấp khớp và đái buốt.
Nho khô có tác dụng kiện tỳ, ích khí, là loại thuốc bổ, người bị suy nhược ăn thường xuyên rất có lợi. Uống một chút rượu nho có tác dụng điều trị nhất định với viêm dạ dày mạn tính.
Lá nho có tác dụng hạ lipid máu, cành nho có tác dụng tiêu viêm, mát máu; rễ nho có tác dụng chống nôn mửa ở phụ nữ mang thai, giúp an thai cầm máu, tiêu thũng lợi tiểu, hỗ trợ điều trị ung thư thực quản, ung thư vú, hạch…
Do lượng đường cao nên người táo bón không nên ăn nhiều.
Một số bài thuốc từ nho:
- Đái ra máu: Rễ nho, đường vàng mỗi loại 15g, sắc uống.
- Viêm dạ dày mạn tính: Rượu vang nho mỗi ngày uống 15ml chia làm 2 đến 3 lần.
- Chữa nôn: Nước nho 1chén nhỏ, thêm ít gừng khuấy đều cho uống.
- Chán ăn: Nho khô mỗi lần dùng 9g, nhai trước bữa ăn, ngày 3 lần.
- Trừ phiền, giảm khát: Nước nho, nước ngó sen lượng bằng nhau, hòa đều uống.
- Cao huyết áp: Nước nho, nước rau cần mỗi thứ một chén nhỏ, hòa nước sôi uống, mỗi ngày 2 lần.
- Phù thũng khi có thai: rễ nho 30g, sắc uống.
- Mỡ máu cao: Lá nho, sơn tra, hà thủ ô mỗi loại 10g, sắc uống.
Nguồn: Đông Y Thiện Tri Thức tổng hợp.