NGẤT VÀ HẠ HUYẾT ÁP – NGUYÊN NHÂN VÀ PHÂN LOẠI

Ngất được coi là tình trạng mất ý thức tạm thời kèm theo mất trương lực cơ tư thế gây ra bới giảm lưu lượng máu não cấp. Theo các nghiên cứu của mỹ thì ngất chiếm 1% số bệnh nhân nhập viện và khoảng 3% số bệnh nhân cấp cứu. Nguồn gốc phó giao cảm là guyên nhân thường gặp nhất, chiếm khoảng 20 đến 40%. Nhiều bệnh nhân ngất không rõ nguyên nhân có tỷ suất tử vong sau 1 năm là khoảng 6% và đột tử là 4%. Những bệnh nhân ngất có nguyên nhân tim có tỷ suất tử vong sau 1 năm là 18 đến 33% và đột tử là 24%.

Về sinh lý thông thường có thể thấy việc chuyển tư thế từ ngồi sang đứng làm giảm lượng máu về tĩnh mạch, giảm áp lực máu về tim. Sau khi đứng dậy, người bình thường sẽ đạt lại trạng thái ổn định ở tư thế đứng trong vòng 1 phút và xuất hiện sự giảm từ từ huyết áp và sự đổ đầy tim làm tăng tần số tim tăng 10 đến 15 lần/phút.

Khi thay đổi tư thế đáp ứng mức độ thần kinh thể dịch cũng được kích hoạt phụ thuộc vào tình trạng thể tích của người đó.

Việc mất khả năng hoạt động đầy đủ hoặc khả năng phối hợp với nhau ở bất kỳ khâu nào đều gây ra sự đáp ứng bất bình thường. Hậu quả là hạ huyết áp có thể dẫn đễn kém tưới máu não…

Biểu hiện lâm sàng thường thấy:

Ngất thường có dấu hiệu tiền triệu là choáng váng hoặc mắt tối xầm lại (trừ ngất bởi nhanh thất – rung thất hoặc vô tâm thu), tiền triệu của ngất nặng dần lên cho đến khi bệnh nhân mất ý thức và ngã xuống hoặc giảm dần nếu tình trạng máu não được điều chỉnh khi người bệnh nằm xuống.

Trong giai đoạn tiền ngất người bệnh có cảm giác choáng váng, quay cuồng, mắt tối xầm, ù tai, có thể buồn nôn hoặc nôn, mặt tái nhợt và toát mồ hôi lạnh. Giai đoạn này nếu đủ thời gian người bệnh có thể kịp nằm xuống tránh chấn thương do ngã, tuy nhiên thường là đột ngột, không báo trước.

Độ sâu và thời gian của tình trạng mất ý thức khác nhau bệnh nhân có thể còn nhận biết môi trường xung quanh hoặc hôn mê sâu. Sau kh tỉnh ý thức được phục hồi ngay nhưng còn yếu nếu vội vàng đứng dậy sẽ ngất trở lại.

Phân loại tình trạng ngất có nhiều loại:

  • Ngất do phó giao cảm thường gặp và lành tính xảy ra ở tư thế đứng, bầu không khí nóng, đứng trước đám đông, sợ hãi trước một thủ thuật gây đau, đứng dậy đột ngột. Dấu hiệu tiền triệu  đi trước vài giây như ù tai, mờ mắt, chóng mặt, choáng váng, toát mồ hôi, xanh, tái và buồn nôn trước khi ngã xuống đất, tuy nhiên nhanh chóng hồi phục tri giác sau vài giây.
  • Ngất do tư thế đứng do sự điều chỉnh kém của hệ thần kinh tj chủ đối với thế đứng; hạ huyết áp do thế đứng có thể do nhóm nguyên nhân thứ phát như rối loạn chuyển hóa và nội tiết hoặc do suy giảm hoạt động của hệ thần kinh tự chủ.
  • Ngất do tim do giảm cung lượng tim đột ngột dẫn đến rối loạn nhịp tim và thể tích tống máu giảm. Ngất do tim thường nhanh hơn loại khác không có tiền triệu và tiền ngất.
  • Ngoài ra còn có ngất do tăng áp động mạch phổi nguyên phát, ngất do xoang cảnh, do thần kinh thiệt hầu và thần kinh X, ngất lúc tiểu tiện, ngất do mạch máu não, ngất do tăng áp lực trong lồng ngực…

Cũng cần phân biệt tình trạng ngất do động kinh, chóng mặt, tăng thông khí, cơn thoáng thiếu máu não, hạ đường huyết hoặc hạ canxi máu hoặc ngất do hysteria.

Người bệnh có tiền sử ngất cần được thăm khám và điều trị nguyên nhân gây ngất hoặc theo dõi tình trạng bênh, hạn chế đi lại bằng phương tiện xe cá nhân tránh tổn thương do tai nạn.

Đông y Thiện Tri Thức tổng hợp

Bài viết liên quan