HÒE (HOA)
-
Tên khoa học: Sophora japonica L, họ Cánh bướm (Papilionaceae).
-
Bộ phận dùng: 1- Nụ Hoa hòe chưa nở gọi là Hòe mễ (TQ); 2 – Nụ hoa hòe sắp nở gọi là Hòe hoa; (ngày nay hòe mễ có lẫn hòe hoa đều gọi chung là Hòe hoa; 3 – Quả hòe gọi là hòa giác. Được ghi nhận vào Dược điển VN và TQ.
-
Mô tả cây: Cây hòe là một cây cỡ nhỡ, cao độ 6 – 10m, quanh năm xanh tươi, sống lâu năm (thậm chí có thể lên đến trăm năm). Lá kéo lông chim le, mọc so le, mỗi lá có 7 – 7 lá chét. Sau độ 3 năm thì thì có hoa, hoa nhỏ mọc thành chùm ở đầu cành, hoa hình cánh bướm, màu vàng sáng. Mùa hoa tháng 8 – 9. Hòe nếp nhiều hoa. Hòe tẻ ít hoa hơn. Quả loại đậu thành từng chuối, thắt ở giữa các hạt, chứa 1 - 4 hạt. Cây hòe được trồng nhiều cở các tình miềm Bắc.
-
Thu hái chế biến:
-
Hòe hoa:Thu hái về mùa hạ, khi hoa chưa nở, bẻ những chùm hoa, tuốt lấy nụ hoa (loại riêng những hoa đã nở sớm) rồi phơi năng thật nhanh cho khô hoặc sây lửa nhẹ. Cũng có thể sao qua bằng lửa nhẹ trong chảo trước khi đem phơi nhưng chú ý đảo luôn và nhẹ tay tránh làm cháy và vụn nát. Hòe hoa mùi nhẹ, vị hơi đắng. Loại hòe hoa toàn nụ khô, màu vàng lục, to chắc, không mốc mọt, không nát vụn, không lẫn hoa đã nở và tạp chất, cuống lá… là tốt. Hòa hoa phải toàn nụ và hoa hòe sắp nở, tỷ lệ hoa đã nở không quá 10%.
-
Hòe giác (quả): Thu hái khoảng 10 – 12 khi quả già thì hái, tuốt bỏ cành, cuống, và loại tạp chất rồi đem phơi khô. Hòe hoa ít mùi, vị đắng, nhai hạt thấy hơi tanh hăng như đậu. Loại hòe hoa giác hạt to, mập già, khô, không lẫn tạp chất là tốt.
-
Công dụng:
-
1 – Hòe hoa theo Đông y, vị đắng tính bình vào 2 kinh Can, Đại trường, có tác dụng làm mát máu, thanh nhiệt, cầm máu, dùng chữa các chứng bệnh nôn ra máu, phụ nữ băng huyết, đau mắt đỏ. Còn dùng trong trường hợp huyết áp tăng, đề phòng tai biến mạch não, xuất huyết cấp tinh do viêm thận, xuất huyết ở phổi. Liều dùng: 4,5 – 9g, hãm hoặc sắc uống.
2 – Hòe giác theo Đông y vị đắng, tính hơi lạnh, vào kinh Can. Có tác dụng trừ phong nhiệt, mát đại trường, nhuận gan. Hòe giác thiên về giáng hạ (đưa xuống) giúp dễ sinh, nhưng cũng có thể gây trụy thai. Dùng chữa các chứng bệnh viêm ruột ra máu (trường phong), trĩ loét ra máu, tim hồi hộp, chóng mặt muốn ngã đau, mắt đỏ, khó sinh. Liều dùng: 6 -12g sắc uống. Theo một số tác giả Rutin trong hòe hoa, hòe giác làm tăng cương sức chịu đưng của mao mạch, hạ huyết pá ngoại vi.
3 – Lưu ý: Người thuộc chứng hư hàn tiêu chảy, phụ nữ có thai không được dùng.
-
Một số bài thuốc ứng dụng :
-
Bài số 1: Chữa viêm ruột tiêu chảy ra máu (trường phong): Hòe hoa 6g; Trắc bách diệp 4g; Kinh giới 4g; Chỉ xác 4g. Tán nhỏ, uống với nước cháo, chia làm 3 lần.
-
Bài số 2: Chữa chảy máu cam, đại tiểu tiện ra máu, trĩ. Lỵ ra máu, phụ nữ băng huyết: Hòe hoa 9g; Nhọ nồi (Bách thảo sương) 3g. Tán bột, uống với nước sắc rễ cỏ tranh.
-
Bài số 3: Chữa tăng huyết áp, đề phòng tai biến mạch não, xuất huyết cấp tính do viêm thận, xuất huyết ở phổi: Hòe hoa 30g; Hy thiêm 30g. Sắc uống.
-
Đông y Thiện Tri Thức tổng hợp